Con Đường Trí Tuệ - Ajahn Sumedho
Đôi khi người ta chỉ trích Phật giáo bởi vì họ nói rằng Phật giáo là bi quan - chúng ta chỉ nói về khổ; tại sao lại không nói về tình yêu? Tình yêu thì truyền nhiều cảm hứng hơn đau khổ, phải không? Nói về tình thương đối với chúng sanh là một chủ đề truyền cảm hứng. Và cũng không có gì sai trái đối với việc quán chiếu loại tình thương phổ quát dành cho mọi người, mọi loài.
Nhưng nếu đó là tất cả chúng ta đang làm, nó đơn thuần có thể sẽ là một sự thanh minh trong sự đau đớn và khổ não bên trong tâm ta. Có thể chúng ta muốn yêu tất cả chúng sinh và sống trong một thế giới của sự hợp nhất và chỉ có tình yêu mà thôi. Đó có thể là một ý tưởng rất hấp dẫn.
Điều gì ngăn cản sự hợp nhất của chúng ta? Nếu chúng ta nhìn lại, chúng ta sẽ thấy đó chính là sự thiếu hiểu biết của chúng ta về chính bản thân mình. Những đau khổ mà chúng ta tạo ra trong cuộc sống, chúng chính là cái xu hướng luôn luôn phân chia và tách biệt, so sánh, chấp nhận và từ chối của chúng ta. Vì vậy, Đức Phật nhấn mạnh đến Chân lý Cao thượng của khổ - không phải như là một cái nhìn độc đoán, bi quan, mà là một sự thật mà chúng ta có thể thoát khỏi nó. Đức Phật dạy: "Ta chỉ dạy hai điều - khổ và sự chấm dứt khổ “.
Khía cạnh đau khổ của Phật giáo dường như là một nỗi ám ảnh đối với các Phật tử. Tất cả mọi thứ đều khổ, khổ và khổ. Đức Phật dạy: "Ta dạy hai điều." Ngài không nói, “Ta dạy một điều - khổ ". Ngài nói:" Ta dạy hai điều - Đau khổ và sự chấm dứt khổ” Vì vậy, chấm dứt khổ là một trong trong những điều mà Đức Phật dạy. Và điều đó xảy ra thông qua khả năng quán chiếu của chúng ta về bản chất của sự vật. Đây là những gì chúng ta gọi là "con đường trí tuệ".
Qua việc nghiên cứu cuộc sống như chúng ta đang trải nghiệm nó, sẵn sàng chấp nhận cái đau, nhìn vào cái khổ, nhìn vào sự tuyệt vọng, nhìn vào nỗi thống khổ - không phải từ cái vị thế mang tính chỉ trích phê phán: Nó phải nên hay không nên như thế này hoặc thế kia, mà từ cái tâm phản tĩnh “ nó là vậy đấy ", chúng ta bắt đầu thấy rằng mọi cái khổ đều sinh khởi và hoại diệt; nó không thường hằng; nó không có thực chất. Khổ hoàn toàn không phải là một sự thật tuyệt đối; nó chỉ là một ảo tưởng mà chúng ta sản xuất và tạo ra trong cuộc sống và đi lạc vào trong đó qua việc chưa từng bao giờ thấy rõ được sự thật.
Vì vậy, toàn bộ mục đích của thiền Phật giáo là để nhận thức được sự thật: Con đường của sự tỉnh thức. Những từ này rất quan trọng trong thuật ngữ Phật giáo: Tỉnh thức, giác ngộ, chánh niệm, tỉnh giác, cảnh giác, chú tâm: Đây là tất cả những từ mà chúng ta có thể sử dụng để muốn nói “ quán chiếu một cách trí tuệ trên bản chất thực của đời sống”.
Phật tử quy y Phật. (Tam Quy là rất quan trọng đối với Phật tử.) Quy y Phật có thể chỉ là một buổi lễ đơn giản của Phật giáo. Vì vậy, quy y là một quy ước mà có thể được sử dụng một cách thiện xảo hoặc có thể chẳng có giá trị gì đối với chúng ta, hoặc chúng ta có thể giống như những con vẹt. Bạn có thể dạy một con vẹt nói: "Buddham Saranam gacchami." ( Con xin đem hết lòng thành kính xin quy y Phật) , không khó để học thuộc lòng. Mọi người hỏi, "Bạn làm gì để trở thành một Phật tử? “ Tại Anh, người ta hỏi ,” Bạn làm như thế nào để trở thành một Phật tử? “ - “Quy y Tam Bảo, giữ năm giới." Quy y Tam Bảo có thể là một buổi lễ mang tính chiếu lệ, hoặc nó có thể là một sự tự soi sáng của chính mình, một sự cam kết thực sự cho việc tu tập tỉnh thức, nhận thức rõ ràng, bởi vì “Phật” bản thân của từ này là “ bậc Tỉnh thức”.
Bạn có thể có những hình ảnh của Đức Phật, có phải không? Họ làm những bức ảnh Đức Phật này vì "Phật" có thể được nhân hình hóa; sự nhân hình hóa không phải chỉ là một thứ trí tuệ trừu tượng; nó không phải là cái gì đó trừu tượng; nó là một cái gì đó mà chúng ta có thể có sự liên quan vì những hình ảnh này là hình ảnh của con người. Các bức ảnh của Đức Phật mang hình ảnh của con người và tượng trưng cho khả năng chánh niệm và trí tuệ trong khoảnh khắc hiện tại của con người . Đó là phẩm chất của một vị Phật - khả năng chánh niệm và trí tuệ của một con người trong khoảnh khắc hiện tại.
Đức Phật là một con người đã phản ứng một cách trí tuệ với cái thế gian mà Ngài đã sống trong đó, và đã phản ứng một cách quá hoàn hảo đến nỗi mà chúng ta vẫn còn có được sự lợi lạc từ sự phản ứng đó của Ngài và giờ đây đang nói về nó. Sau 2.530 năm, chúng ta vẫn thấy việc trở thành những tu sĩ Phật giáo thật đáng giá. Điều này đối với tôi còn có nghĩa nó là tiềm năng cho toàn thể nhân loại.
Chúng ta có thể xem Đức Phật Gotama là một siêu nhân rất đặc biệt, rất cao quý, chứ không phải là một con người bình thường. Trong các truyền thống của Phật giáo, Ngài đã thường xuyên được đề cao như là một siêu nhân. Ngài quá đặc biệt, quá tuyệt vời, quá phi thường, đến nỗi cuộc sống của chúng ta, “cái sinh vật này đây”, không bao giờ có thể mơ tưởng tới. “Cái con người này đây” không có những phẩm hạnh tuyệt vời đó, và vân vân. Khi chúng ta nghĩ như thế, chúng ta bằng cách này hay cách khác đã bỏ lỡ giá trị của Giáo pháp, bởi vì Đức Phật là một con người đặc biệt, cao quý, vượt xa chúng ta và cuộc sống của chúng ta thì không bao giờ hy vọng có thể đến gần với một sự hoàn hảo như vậy.
Nhưng Giáo pháp, xin hãy lưu ý, không phải là nói về việc trở thành một siêu nhân, hay trở thành bất cứ điều gì cả. Nó hoàn toàn ngược lại với việc trở thành bất cứ điều gì; nó là sự tỉnh thức của một con người trước bản chất thật của sự vật. Nó không phải nói về việc trở thành một con người đặc biệt, hoặc cố gắng để trở nên một siêu nhân trong kiếp sau; Giáo pháp đó dành cho cuộc sống này, cho con người của chúng ta trong hình hài này, trong vòng nghiệp chướng này, với chúng ta là những con người- con người với tất cả các phước lành, lỗi lầm và các vấn đề của nó: Đây là khổ. Có nguồn gốc của khổ, có sự chấm dứt của khổ và con đường thoát khổ. “ Ta chỉ dạy hai điều -. Khổ và chấm dứt khổ”
Điều này đối với một số người dường như không đủ. Chúng ta nghĩ, 'Vâng, còn tình yêu thì sao? Điều gì xảy ra khi chúng ta chết? Ai tạo ra thế giới? Ai là người đã làm cho nó vận hành ? Ai là những con người đầu tiên? " Và chúng ta tạo ra tất cả các loại vấn đề vĩ mô, siêu hình trong tâm trí của chúng ta, bởi vì cuộc sống là một trải nghiệm khá bí ẩn khi chúng ta nghĩ theo cái suy nghĩ chịu sự tác động bởi các điều kiện của chúng ta. “'Mục đích là gì? Dẫu gì thì thế giới bắt đầu như thế nào?” Nhưng Đức Phật sẽ không bao giờ trả lời những câu hỏi này bởi vì những gì Ngài chỉ rõ cho chúng ta luôn luôn là “ở đây và bây giờ”: Khổ và sự chấm dứt khổ. Ngài đã dạy một cách hết sức trí tuệ. Sự sáng chói của nó nằm trong sự nhất quán này, đó là mối quan tâm của Ngài đối với những gì chúng ta thực sự có thể biết và hiểu, ngay cả khi chúng ta đang ở trong thời đại này .
Đức Phật nhấn mạnh rằng sự sinh khởi của khổ là do sự chấp thủ của chúng ta vào ham muốn. Nó làm gì với tâm trí của bạn? Chúng ta đều có những ham muốn, phải vậy không? Cơ thể của chúng ta là cơ thể của những sự ham muốn. Hãy nhận ra chúng là cơ thể của những sự ham muốn! Nếu bạn nhận thấy, đôi khi bạn suy nghĩ một cách lý tưởng rằng, “ Tôi không muốn tham lam. Tham lam làm cho tôi ghê tởm.” Sau đó, bạn thấy cơ thể của mình đang nuốt thức ăn một cách tham lam và rồi bạn nghĩ rằng,"Thật kinh tởm, phải vậy không?" Dù thế nào đi chăng nữa thì cơ thể có những ham muốn của riêng nó. Trong tâm bạn, bạn có thể nghĩ rằng sự tham lam đối với thức ăn là kinh tởm, nhưng cơ thể tự thân nó có những nhu cầu riêng của nó, vì vậy cơ thể sẽ muốn thức ăn mặc dù bạn có thể không muốn nó.
Bạn đang cố gắng ăn kiêng, hoặc làm một cái gì đó, cố gắng để giữ cho cơ thể không ăn quá nhiều. Vì vậy, cơ thể tự thân nó là một cơ thể của sự ham muốn – cái thân người này. Chúng ta không phê phán, không nói rằng cái ham muốn đó là xấu – hãy lưu ý đến điều đó! Chúng ta đang chỉ nói đến ham muốn, và sự chấp thủ vào ham muốn. Vấn đề là sự chấp thủ. Ham muốn không phải là vấn đề.
Đức Phật liệt kê ra ba loại dục vọng. Có những ham muốn làm vui các giác quan - khuynh hướng tự nhiên này là muốn nhìn những thứ đẹp đẽ, muốn nghe âm thanh hay, nếm hương vị thơm ngon, và v.v… Sau đó có ham muốn được trở thành - mong muốn trở thành một cái gì đó. Chúng ta không muốn làm chính mình, chúng ta muốn là một cái gì đó khác; chúng ta muốn được giác ngộ để trở thành một con người phạm hạnh, và v.v... Một số ham muốn thì khá tốt, bạn biết đấy. Không phải tất cả các ham muốn đều xấu. Và loại ham muốn thứ ba là “để tống khứ, để thoát khỏi những điều chúng ta không thích" - mong muốn thoát khỏi sự giận dữ, mong muốn thoát khỏi tham lam, sân hận, và si mê.
Ham muốn là gì? Nó là một sự thay đổi, đúng không? Nó không phải là một cái gì đó thường hằng. Bạn thấy ước muốn đi qua tâm trí, đi qua con người bạn. Bạn cảm thấy mình ham muốn một cái gì đó. Bạn thực sự có thể quan sát nó; bạn có thể quán chiếu rằng "đây" là ham muốn. Khi bạn đang hành thiền và đang mong muốn đạt được một trạng thái yên tĩnh, bạn có thể quán chiếu rằng có sự mong muốn đạt được sự yên tĩnh này. Có mong muốn thoát khỏi cái đau, hay thoát các trạng thái tâm khó chịu. Có mong muốn có được một loại cảm giác nào đó, một trải nghiệm thú vị. Chúng ta có thể hiểu được ham muốn. Và cái tuệ quán đến từ sự hiểu biết đó là chúng ta có thể buông bỏ nó; chúng ta không cần phải nắm giữ nó.
Đức Phật đã so sánh việc nắm giữ ham muốn như giữ lấy lửa. Điều gì xảy ra nếu bạn giữ lấy lửa? Bạn bị đốt cháy, có phải không? Nắm giữ ham muốn cũng tương tự như vậy đấy. Chúng ta luôn luôn bị tổn thương. Ham muốn là phải được nhìn thấy, là phải được biết để buông bỏ nó. Và buông bỏ không phải là đàn áp; không phải là chúng ta đàn áp, chế ngự ham muốn. Chúng ta thừa nhận nó và để cho nó ra đi. Tuệ quán vào nguồn gốc của khổ này là Chân lý Cao thượng thứ hai.
Như tôi đã nói, buông bỏ không có nghĩa là tống khứ sự vật. Vì vậy, chúng ta phải chịu đựng. Chúng ta để cho sự vật ra đi, chứ không phải cố gắng để làm cho chúng ra đi. Cố gắng để được thoát khỏi sự vật là một ham muốn, phải vậy không? Và đó là nguồn gốc của khổ. Nếu chúng ta cố gắng để tống khứ sự vật, tiêu diệt, kiểm soát , thao túng, đàn áp, giết chết, ám sát, tiêu diệt chúng, chúng ta sẽ tự tìm thấy mình trong một tình huống vô vọng. Chúng ta kết thúc bằng cách đàn áp sự vật và chúng ta sẽ luôn luôn thất bại, bởi vì đàn áp chỉ là nhìn theo một cách khác. Và, tất nhiên, khi bạn không nhìn vào một cái gì đó, bạn nghĩ rằng bạn đã quên nó. Nhưng thật ra nó vẫn còn sờ sờ đó. Tôi nhìn qua bên đây - hoa này là đẹp. Nhưng cái xấu xí đó thì ở đằng kia. Và rồi khi tôi quên những bông hoa xinh đẹp thì cái xấu xí này – thông qua cái quên của tôi- quay trở lại và đánh tôi một trận tơi bời nữa. Nó trở lại, bởi vì tôi chưa bao giờ buông bỏ nó, tôi chẳng bao giờ để cho nó đi, tôi chỉ đẩy nó qua một bên, và làm như vậy cần sự cố gắng, phải vậy không? Ý tôi nói là để đè nén và để đàn áp nó.
Buông bỏ có nghĩa là chúng ta phải chịu đựng đau đớn và khổ não và đau khổ cho đến khi nó chấm dứt. Chúng ta đang buông bỏ nó, nhưng chúng ta không tống khứ nó, bởi vì nó sẽ đi vào cái ngày của chính nó; bản chất của nó là phải chấm dứt bởi vì nó không phải là sự thật tuyệt đối, nó không thường hằng. Đây là nơi con người, đặc biệt là con người hiện đại, cần phải rất kiên nhẫn. Chúng ta không nhẫn nại, chúng ta hiện đại, có năng lực, có giáo dục, thông minh –nhưng một trong những thiếu sót lớn nhất của chúng ta là thiếu là sự kham nhẫn.
Đến từ một xã hội luôn được sự hỗ trợ rất cao như Hoa Kỳ, tôi có thể nói rằng sự kiên nhẫn không bao giờ được coi là chuyện quan trọng. Làm việc hiệu quả, nhận được mọi thứ ngay lập tức, nhanh chóng, nhận những gì bạn có thể có được ngay lập tức, không cần phải chờ đợi lâu cho bất cứ điều gì, đó là điều quan trọng. Một thẻ tín dụng từ Ngân hàng Barclay ở Anh đã “ loại sự chờ đợi ra khỏi cái muốn” - đó là khẩu hiệu của họ cách đây vài năm. Hãy quán chiếu việc “loại sự chờ đợi ra khỏi cái muốn” !
Có một thẻ tín dụng Barclay, bạn không cần phải chờ đợi nữa cho bất cứ điều gì; bất cứ điều gì bạn muốn, bạn đã có thẻ này; bạn không phải chờ đợi. Nói về tài chính thế giới, bạn đột nhiên nhận ra rằng con người tham lam, người mà không muốn chờ đợi bất cứ điều gì- người mà muốn sự giàu có và sự thoải mái và mọi thứ ngay lập tức- thực sự sẽ phải trả giá cho điều này. Nó trông không còn tốt được như vậy nữa đâu - cuối cùng chúng ta có thể phải chờ đợi một cái gì đó. Vì vậy, chờ đợi là một phần rất lớn của sự thiền tập. Thiền tập là học để chờ đợi, học để chờ đợi một cách an bình, chứ không phải chờ đợi trong sự bồn chồn. Khi chúng ta đang ngồi vẫn giữ cho thân của mình ở yên trong một tư thế trong nửa giờ hoặc một giờ, chúng ta phải đợi mọi thứ, chúng ta phải kiên nhẫn, chúng ta phải để cho sự vật vận hành theo cách của chúng. Khi cái đau sinh khởi, chúng ta phải để cho cái đau có mặt ở đó. Chúng ta phải cho phép những suy nghĩ khó chịu vận hành theo cách của chúng, và để cho chúng ra đi.
Chúng ta phải kiên nhẫn, tiếp nhận những cảm giác bồn chồn, sự nhàm chán, và tất cả những sự khó chịu mà lẽ ra chúng ta có thể loại bỏ chúng ngay lập tức nếu chúng ta không hành thiền. Trong một gia đình hiện đại, nếu bạn không hành thiền, có rất nhiều thứ, chỉ cần một chút nhàm chán hoặc một chút thiếu kiên nhẫn sinh khởi là luôn luôn có một cái gì đó làm cho bạn tự sao lãng. Trong thiền tập, bạn đang cố ý chọn để đặt mình vào trong một tình huống mà bạn không thể chạy trốn chính mình. Bạn phải chịu đựng cái cách mà sự việc đang diễn ra, chịu đứng sự chịu đựng của chính mình, thời tiết như thế nào cũng phải chịu đựng nó như thế ấy cũng như với các tình huống khác nhau.
Sống ở Thái Lan trong mười, mười một năm, bạn sẽ rèn luyện được rất nhiều sự kiên nhẫn, bởi vì có rất nhiều thứ ở Thái Lan thật không nên có - như muỗi. Ý kiến của tôi luôn luôn mạnh mẽ cho rằng loài muỗi không nên tồn tại. Tôi không biết bạn ra làm sao nhưng một khi bạn đã đắp y và trở thành một tu sĩ Phật giáo, bạn không thể giết bất cứ một sinh vật nào. Đột nhiên bạn ngồi đó và muỗi bay vo ve xung quanh bạn, và bạn phải chấp nhận những ý nghĩ giết hại đang sinh khởi trong tâm trí của bạn, những tiếng vo ve gây phiền nhiễu của muỗi và tất cả những sự khó chịu mà bạn có thể tạo ra xung quanh nó. Nhưng đó cũng là một phần của thiền tập, là một cách để học kiên nhẫn.
Người ta thấy rằng họ có thể chịu đựng những điều như vậy. Tôi thấy rằng tôi đã có một khả năng to lớn để chịu với những điều mà trước khi tôi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ có thể chịu đựng được cả. Tôi đã từng có những tiếng la hét những bên trong, "Tôi không thể chịu được thêm một khoảnh khắc nào nữa! Tôi đủ rồi! " Và sau đó tôi phát hiện ra tôi luôn luôn có thể chịu đựng thêm một khoảnh khắc nữa. Nó làm tôi ngạc nhiên. Bạn đã bao giờ nhận thấy điều này trong chính mình chưa? Có một thứ bùng nổ bên trong, “ Đủ rồi! Tôi chán ngấy! Tôi không thể chịu đựng được " Nhưng chúng ta có thể chịu đựng được; chúng ta có một khả năng tuyệt vời để chịu đựng, và cam chịu.
Khi chúng ta bắt đầu chứng nghiệm được điều này, các nỗ lực của chúng ta nhằm để loại bỏ hoặc để phản ứng một cách dễ duôi với thế giới dục lạc, bắt đầu yếu dần đi. Chúng ta bắt đầu đến với thế gian một cách thiện xảo, nhẹ nhàng, sẵn lòng, và kiên nhẫn hơn.
Theo: The Path of Wisdom
Chuyển ngữ: Supañña Thiện Trí