Trang Nhà

Audio & Video

Thông Tin

Sách

Bài Viết

Sống Khỏe

English

Liên Lạc

Thiền Quán Tâm

email add Xin email tới: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

VÔ THƯỜNG - KHỔ - VÔ NGÃ.
Chẳng có gì mãi mãi y nguyên không thay đổi. Tất cả mọi thứ đều đổi thay. VÔ THƯỜNG - KHỔ - VÔ NGÃ.

Tự nhiên đang diễn ra bởi vì điều kiện hóa, nhân duyên tương tác. Bởi vì tương tác nhân duyên, đề mục sanh khởi. Đó là ý nghĩa của vô thường (anicca). Bạn cần hiểu biết bất cứ cái gì đang diễn ra (suy nghĩ đang diễn ra, cảm giác đang diễn ra, tâm hay biết đang diễn ra, chánh niệm đang diễn ra). Bạn cần nhận biết rằng nó đang diễn ra. Đang sanh khởi, đang diễn ra, đang trở thành. Diễn ra, trở thành, sanh khởi. Diễn ra là vô thường (anicca), diễn ra là đau khổ (dukkha), diễn ra là vô ngã (anatta). Khi tâm thanh tịnh, bạn sẽ hiểu được. Bạn sẽ hiểu được cái gì đang diễn ra là vô thường, diễn ra là khổ, và diễn ra là nhân quả, vô ngã, chẳng có ai cả. Chánh niệm ghi nhận tất cả những gì đang diễn ra; đề mục cũng đang diễn ra, sự hay biết đang diễn ra, cảm giác đang diễn ra, suy nghĩ đang diễn ra. Tất cả đều mới, mới, mới.

 

Thiền sinh: Làm thế nào để học cách nhìn thấy vô thường, bạch thầy?

Thiền sư: Bạn không phải đi tìm kiếm vô thường. Khi trí tuệ tăng trưởng, nó sẽ hiểu ra được rằng tất cả mọi thứ trên đời đều mang bản chất vô thường này. Nhiệm vụ của bạn chỉ là giữ chánh niệm, cố gắng chánh niệm càng liên tục càng tốt. Khi chánh niệm trở nên liên tục và mạnh mẽ, trí tuệ sẽ bắt đầu thấu hiểu ra được bản chất của vạn pháp. Đừng cố mà hiểu những thứ đó vội, hãy chỉ cần cố gắng chánh niệm với thái độ chân chánh là đủ.

Thiền sinh: Vậy thì con chỉ cần chờ đợi cho đến khi trí tuệ đến hay sao?

Thiền sư: Đúng vậy, nhiệm vụ của bạn là làm cho tâm mình trở nên mạnh mẽ hơn. Giống như khi nhìn, nếu mắt bạn không tốt, thì dù có cố căng mắt ra mà nhìn đến đâu chăng nữa bạn cũng chỉ phí công vô ích mà thôi. Chỉ khi vớ lấy cặp kính mà đeo vào, bạn mới nhìn rõ được mọi thứ. Những cái bạn cần nhìn, nó đã có sẵn ở đó rồi, song bạn cần phải nhìn bằng đôi kính trí tuệ chứ không phải bằnh cặp kính màu. Nếu nhìn đời qua đôi kính màu hồng, mọi thứ cũng toàn một màu hồng; nhìn bằng cặp kính màu xanh, vạn sự sẽ toàn màu xanh. Vì vậy điều quan trọng là tâm quan sát, hay tâm thiền, phải nhìn thấy đúng bản chất của mọi sự. Chỉ khi không bị nhiễm tham, sân thì nó mới có thể nhìn thấy được vạn pháp như chúng đang là. Nếu bạn chỉ muốn nhìn sao cho thấy được vô thường, thì có nghĩa là bạn cũng đang đeo một cặp kính màu rồi đó. Bởi vì có cái muốn đó mà bạn sẽ không thể nhìn thấy được mọi sự việc như chúng đang là; bạn sẽ không thể thấy và sẽ không thể hiểu được thế nào là vô thường.

VÔ NGÃ (anatta)

Thiền sinh: Thầy thường khuyến khích thiền sinh tự nhắc mình rằng những gì mình kinh nghiệm được chỉ là “tự nhiên”. Tại sao thầy muốn thiền sinh quan sát các kinh nghiệm đó với cái nhìn “tất cả đều chỉ là những hiện tượng tự nhiên mà thôi” thay vì với cái nhìn về vô ngã?

Thiền sư: Từ vô ngã (anattā) thường hay bị người ta hiểu sai. Mọi người hay nghĩ rằng vô ngã nghĩa là mất cái ngã đi và chính cái “vô ngã” này lại trở thành một khái niệm chế định nữa. Trongthực tế chỉ đơn giản là không có cái gì là ngã, là tôi cả, cũng như từ trước đến nay nó chưa từng có bao giờ. Do đó tốt hơn hết là nhìn vào các kinh nghiệm như “đây chỉ là các hiện tượng tự nhiên mà thôi”. Những hiện tượng tự nhiên này sanh khởi do bởi nhân duyên. Nhìn sự việc bằng cái nhìn như thế chính là chánh kiến, và nhờ quan sát cách thức những nhân duyên nhất định đưa đến một kết quả nhất định nào đó, chúng ta sẽ hiểu được rằng ở đó chỉ có những nhân duyên, không có cái “tôi” nào cả. Hiểu được duyên khởi là hiểu được vô ngã.

ĐAU KHỔ (dukkha)

Thiền sinh: Hôm trước thầy nói rằng tất cả những gì khó buông bỏ đều là đau khổ. Thầy nói khó buông bỏ là khó buông bỏ hoàn toàn, là dứt tuyệt hẳn hay là buông bỏ tạm thời?

Thiền sư: Bất cứ cái gì khó buông bỏ đều là đau khổ cả, dù là buông bỏ hoàn toàn hay buông bỏ tạm thời trong chốc lát. Tham và sân, cái nào khó buông bỏ hơn?

Thiền sinh: Có lẽ chúng cũng giống nhau cả thôi.

Thiền sư: Tham khó buông bỏ hơn, bởi vì nó vi tế hơn – và si là khó nhất. Hôm trước tôi nói như vậy là ý muốn nói rằng không nên sử dụng từ đau khổ (suffering – sự đau đớn, khổ não) để nói về dukkha. Hầu hết các thiền sinh chẳng hiểu gì về sự thật của dukkha cả, nhưng họ hiểu được sự thống khổ, nỗi đau đớn. Thông thường họ chỉ hiểu được mỗi một loại đau khổ, đó là cảm giác khổ, cảm giác đau đớn (dukkha vedanā –khổ thọ) và cách hiểu về khổ như thế hay dẫn đến sự chống đối. Hiểu biết về dukkha khác vậy nhiều lắm.

Nhiều thiền sinh được học rằng vô thường là khổ. Họ cũng học đâu đó rằng sanh diệt là một dấu hiệu của vô thường. Và bởi vì nóng lòng muốn tiến bộ nên họ cố gắng ra sức để nhìn cho thấy sanh diệt. Khi làm như vậy, dĩ nhiên là họ vẫn nhớ những gì đã được học và bất cứ cái gì đến và đi mà họ thấy được, họ cũng sẽ suy diễn ra rằng đó chính là khổ. Bởi vì họ thấy đây là một dấu hiệu của sự tiến bộ, nên tâm họ bắt đầu hướng về đau khổ, luôn nhìn thấy đau khổ ở mọi nơi và họ bắt đầu sợ hãi. Sợ chính là sân ở dạng thụ động. Đôi khi có thiền sinh sợ quá đến mức gục xuống và khóc lóc.

Nghĩa của từ dukkha sâu rộng hơn nhiều chứ không chỉ mỗi là sự đau đớn và thống khổ về thể xác và tinh thần như thế. Bất cứ loại đau khổ nào, từ những loại thô kịch nhất như đau đớn, sầu muộn cho đến những loại vi tế như bất mãn, bất an, bất toại nguyện, không chắc chắn, bất định, mơ hồ, cảm giác không an toàn...tất cả đều mới chỉ là những mức độ thô nhất của khổ -dukkha mà thôi. Theo kinh điển, khổ mức độ này được gọi là khổ khổ (dukkha-dukkha). Khổ do sanh, già, bệnh, chết, cũng như các trạng thái cảm xúc buồn đau như tức giận, sợ hãi, thất vọng, bất an, xa người mình yêu, gần kẻ mình ghét, muốn mà không được hay được cái mình không muốn...tất cả những loại khổ này nằm trong mức độ đầu tiên của khổ – dukkha.

Mức độ thứ hai được gọi là hoại khổ (viparināma- dukkha). Loại này vi tế hơn và khó thấy hơn. Bất cứ loại dục lạc hay thú vui nào, mà thực ra là tất cả mọi thứ hạnh phúc trên đời – dù là thanh cao, vi tế và kéo dài đến đâu –không sớm thì muộn cũng phai tàn. Phải làm đi làm lại một việc gì đó, hay phải cố gắng thành đạt cho được một cái gì, tất cả những thứ đó đều nằm trong loại khổ này. Mỗi khi hành thiền, bạn có thể có được rất nhiều định tâm, hỷ lạc hay sự khinh an, nhẹ nhàng nhưng rồi chúng cũng không kéo dài mãi. Kinh nghiệm những trạng thái ấy cũng là đau khổ. Hầu hết tất cả mọi người đều cảm thấy rất khó hiểu được tại sao tất cả mọi thứ hạnh phúc trên đời lại đều là đau khổ như vậy.

Loại khổ thứ ba và cũng là loại cuối cùng là hành khổ (sankhāra-dukkha), được coi là đau khổ của kiếp sinh tồn. Danh sắc (nāma-rūpa) là khổ; bản thân sự việc chúng ta đang tồn tại đây cũng là khổ.

Điều hết sức quan trọng là phải hiểu được sự khác nhau giữa việc bị đau khổ hành hạ và hiểu biết về khổ. Đau đớn về thể xác hoặc tinh thần – dù thô rõ hay vi tế – cũng đều tự động đi kèm với một loại tâm sân nào đó; khổ thọ (dukkha vednā) hoặc ưu não (domanassa) luôn luôn sanh khởi cùng với tâm sân (dosa). Tất cả những loại đau khổ đó đều dẫn đến những trạng thái tâm bất thiện và vì vậy lại càng thêm đau khổ.

Hiểu biết khổ hay liễu tri khổ, tuệ tri khổ không có nghĩa là phải chịu đau khổ về tinh thần. Hiểu biết khổ rất khác, đó là một trạng thái tâm thiện, là một kinh nghiệm giải thoát và chuyển hoá cuộc đời. Mỗi một hiểu biết nho nhỏ về khổ lại giúp cho tâm buông bỏ và do đó lại chứng nghiệm nhiều giải thoát hơn. Hiểu biết khổ sẽ dẫn đến những trạng thái tâm thiện hơn và sẽ làm cho tâm trở nên mạnh mẽ hơn.

Để hiểu biết khổ, chúng ta không những cần phải có những thông tin đúng như thế này mà còn phải có cả cách suy nghĩ đúng nữa. Đức Phật nói một trong những nguyên nhân khiến chúng ta trôi lăn trong vòng luân hồi vô thuỷ là không thấy khổ và không hiểu biết khổ. Không hiểu biết khổ, chúng ta sẽ còn tiếp tục hy vọng vào những gì tốt đẹp ở phía trước để rồi lại tiếp tục thất vọng. Hầu hết mọi người phung phí rất nhiều thời gian để chiến đấu với đau khổ, cố sức cải tạo và thay đổi thế giới của mình. Chiến đấu với đau khổ như thế không những chỉ kiệt sức vô ích mà còn tạo ra thêm muôn vàn đau khổ nữa. Suy nghĩ đúng đắn hay chánh tư duy là chấp nhận và ghi nhận đau khổ. Thấy khổ và chấp nhận khổ nghĩa là thấy và chấp nhận mọi sự việc như nó đang là; và một trạng thái tâm chấp nhận như vậy sẽ giải phóng ra rất nhiều năng lượng để bạn có thể sử dụng cho tu tập.

Khi đã ngày càng thuần thục và khéo léo nhận diện đau khổ hơn, chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ ràng mỗi khi chính mình đang “tạo ra” thêm đau khổ mới. Thầy tôi thường dạy rằng chỉ khi nào hiểu được cái khổ của sự sanh (jāti dukkha), thì tâm mình mới thực sự hướng tới Niết Bàn. Tất cả những gì được sanh ra đều là đau khổ – và khi nó mất đi cũng là đau khổ nữa. Chính vì không hiểu được cái khổ của sự sanh mà chúng ta vẫn luôn muốn có được cái gì đó hay muốn loại bỏ cái gì đó đi. Một cái tâm đã hiểu biết khổ sẽ không đi tìm cầu hạnh phúc nhưng cũng không chối bỏ những gì đang trải nghiệm; nó tuyệt đối bình an trước bất cứ những gì đang diễn ra.

Tất cả mọi chúng sanh đều đau khổ, nhưng chỉ những người nhận diện được đau khổ mới có thể phấn đấu để giải thoát chính mình ra khỏi đau khổ. Nhận diện rõ ràng và chấp nhận đau khổ sẽ dẫn đến sự giải thoát nội tâm. Đức Phật nói rằng người nào thấy khổ cũng sẽ thấy được khổ diệt. Chỉ khi thực sự hiểu được khổ thì thực hành con đường đi đến Niết Bàn mới được coi là điều duy nhất đáng làm trên đời.

Sayadaw U Tejaniya
Trích “Pháp Ở Mọi Nơi “
“Chỉ Chánh Niệm Thì Không Đủ”
Người dịch: Sư Tâm Pháp

Trang Nhà

Audio & Video

Thông Tin

Sách

Bài Viết

Sống Khỏe

English

Liên Lạc

Những Bài Được Nghe Nhiều Nhất

S5 Box